Cách đây hơn 400 năm những người Việt đầu tiên ra khai phá đảo Lý Sơn. Từ đấy đến nay, các dòng họ trên đảo luôn thể hiện sự tri ân các bậc tiền nhân theo nhiều lẽ khác nhau.
Những người đầu tiên khai phá đảo Cù Lao Ré
Hiện nay, tại 2 khu di tích Quốc gia đình làng An Hải và đình làng An Vĩnh còn 2 ngôi đền thờ các vị tiên công – là những người đầu tiên khai phá đất đảo Cù Lao Ré. Ngôi đền tiên công ở khu đình An Hải thờ thất tộc, đền tiên công ở khu đình làng An Vĩnh thờ lục tộc. Tức có cả 13 vị tiên công. Nhưng thực ra, trong buổi đầu khai phá, có tất cả 15 vị. Tại làng An Hải có 8 vị thuộc các họ: Nguyễn, Dương, Trương, Trần, Võ, Nguyễn Đình, Nguyễn Văn, Lê. Tại làng An Vĩnh có 7 vị thuộc các họ: Võ Văn, Võ Xuân, Phạm Quang, Phạm Văn, Lê, Nguyễn, Trần. Sau này, mỗi làng phế truất 1 vị, do bị phạm vào những điều huý kỵ mà ở đây chưa có điều kiện kể lại, nên giờ còn 13 vị.

Lân An Hoà (An Vĩnh, Lý Sơn) nơi các dòng họ tại lân An Hoà thờ phụng các vị tiền hiền của lân từ thuở khai phá Lý Sơn. Ảnh Đăng Vũ
Đến hiện nay, Cù Lao Ré - Lý Sơn không chỉ có 13 hay 15 dòng họ đó mà đã có đến hơn 40 dòng họ định cư trên hòn đảo xinh đẹp này.
Theo ký ức được lưu truyền trong các dòng họ, các vị tiên công đã đến Cù Lao Ré từ thời vua Lê Kính Tông, tức đã hơn 400 năm. Tuy ký ức lưu truyền là vậy, nhưng vì nhiều lẽ khác nhau, hiếm có dòng họ nào còn giữ được tài liệu Hán Nôm ghi chép về chuyện buổi đầu khai phá. May thay, trong quá trình điền dã, chúng tôi đã tìm thấy một văn bản Hán Nôm tại nhà thờ họ Dương làng An Hải còn khá nguyên vẹn. Đó là văn bản được quan phủ Quảng Nghĩa phê chuẩn cho các quan Tá trung hầu Thuỷ thuyền, Tướng thần, xã trưởng, cùng nhiều người thuộc các dòng họ ở xã Tư Cung, huyện Bình Sơn được khai phá lâm lộc (đất rừng chân núi), để làm sơn điền (ruộng núi), vào ngày 28 tháng 4 năm Hoằng Định thứ 4 (1604).
Mặc dầu tài liệu này chỉ vỏn vẹn có 2 trang chữ Hán, nhưng đó là tài liệu đặc biệt quan trọng, góp phần xác thực thời điểm người Việt đến khai phá đất đảo Lý Sơn, thay cho ký ức truyền khẩu hằng trăm năm qua.
Nơi thờ phụng tiền nhân
Như vừa nói ở trên, trong 2 khu di tích đình làng An Hải và An Vĩnh có 2 ngôi đền thờ tiên công khá bề thế. Đó là một trong những điều khác biệt so với các nơi thờ tự khác. Thường ở những nơi khác, ngoài ban thờ chính là Thành hoàng làng (có khi là Tam phủ), trong đình có các ban thờ tiền hiền, hậu hiền, tiền vãng, hậu vãng, tức không có đền thờ tiên công (tiền hiền) riêng. Hai đình làng Lý Sơn cũng đầy đủ các ban thờ như vậy, nhưng lại thêm 2 đền thờ tiên công, chứng tỏ người Lý Sơn đặc biệt coi trọng các bậc tiền nhân của họ. Không những thế, ở các nơi thờ tự khác ở hòn đảo này, như các dinh, miếu thờ Thiên Y A Na, Bà Chúa Yàng, Bà Chúa Ngọc, Bà Thuỷ Long, Dinh Tam Toà, Nghĩa tự, Dinh Đụn, lăng Cá Ông… cũng đều có các ban thờ tiền hiền, hậu hiền, tiền vãng, hậu vãng tương tự.
Ngoài đền thờ chung cho các vị tiên công của làng, các dinh, miếu của xóm, của lân, thì trong mỗi tộc họ, không phân biệt dòng họ tiền hiền hay hậu hiền, đều có nhà thờ thờ các vị thuỷ tổ, cũng như người đã quá vãng của dòng họ mình. Mặc dầu trải qua bao biến động của thời cuộc và sự khắc nghiệt của thiên tai, nhưng đến nay, có lẽ khó có nơi nào còn lại những ngôi nhà thờ bề thế khang trang, có kiến trúc cổ xưa, vốn được xây dựng cách đây hàng vài trăm năm như các nhà thờ họ trên đất đảo Lý Sơn, như nhà thờ họ Võ, họ Lê, họ Phạm (Văn), họ Đỗ… (An Vĩnh), họ Dương, họ Trần, họ Nguyễn…(An Hải).
Việc chăm lo tế tự
Việc xây dựng đình làng, đền thờ tiên công hay nhà thờ của các tộc họ đều do sự đóng góp tự nguyện của các dòng họ, bằng đất hương hoả, tiền bạc hay bằng công sức. Nhiều tài liệu Hán Nôm mà chúng tôi sưu tầm được trên đất đảo Lý Sơn đã minh chứng cho điều đó.
Tại nhà thờ họ Dương làng An Hải, còn lưu một tài liệu được viết cách đây gần 250 năm, vào ngày 12, tháng 4, năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), các viên chức cùng toàn thể bổn tộc các dòng họ phường An Hải kê biên về các khoảnh đất đai mà tổ tiên họ đã khai phá trên xứ Cù Lao Ré, trong đó có ghi rõ những phần đất trồng cỏ, đất phù sa để lại thay phiên canh tác lo việc giỗ chạp hằng năm. Cũng tại nhà thờ này, còn có bản ghi chép vào ngày 10, tháng 5, năm Minh Mạng thứ 12 (1831) về việc lo yến tiệc, xây dựng nhà thờ, soạn bản phó ý, phân định đóng góp quan tiền cho các phái nam lẫn phái nữ.

Đọc văn tế tại đình làng An Vĩnh - Lý Sơn. Ảnh Đăng Vũ
Tại nhà thờ họ Võ Văn (An Vĩnh, Lý Sơn) cũng còn nhiều tài liệu nói vể việc lập lương bằng để lo tế tự tổ tiên. Vào ngày 12, tháng 10, năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), bản tộc họ Võ hội họp làm lễ cao tổ tỷ tại nhà trưởng tộc để bàn và ấn định làm lương bằng để lo việc phụng thờ và còn quy định đến các ngày 29, tháng 9, 20 tháng 10 hàng năm, phải đem số tiền là 10 quan, 13 mạch để lo làm giỗ chạp, với mong muốn "đời đời con cháu về sau nối truyền". Vào năm Bảo Đại thứ 9 (1933), bổn tộc họ Võ Văn còn có văn bản hiến tặng ngôi nhà ở của một người trong họ để làm nhà thờ gia tộc.
Trên đây chỉ là liệt kê vài tư liệu đã có từ hằng trăm năm trước còn trên đất đảo Lý Sơn. Trong quá trình điền dã chúng tôi còn tìm thấy hàng nghìn trang tài liệu Hán Nôm trong các nhà thờ của các dòng họ, như các tài liệu nói về việc phân chia ruộng đất hương hỏa vào các năm Cảnh Hưng thứ 33 (1673), Cảnh Hưng 41 (1681), tờ đồng thuận phân chia ruộng đất hương hỏa trong bổn tộc vào năm Gia Long 15 (1816), tờ kê thu hoa lợi ruộng đất hương hỏa năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), tờ đồng thuận bán một phần ruộng hương hỏa để quy lo việc tế lễ vào năm Thiệu Trị 3 (1843), v.v…
Nhìn chung, việc thờ cúng tổ tiên của người Lý Sơn thể hiện đạo lý "Uống nước nhờ nguồn" hết sức sâu nặng, không phải chỉ trước đây, mà cho đến tận bây giờ, từ việc thờ cúng những bậc tiền hiền có công đến việc lập làng lập xóm, đến những binh phu đi Hoàng Sa, cả việc thờ tự những người đã bỏ mình vì công cuộc mở mang đất đai trong suốt chiều dài lịch sử khai hoang lập ấp mà không ai hương khói (như nghĩa trủng, nghĩa tự).
TS. Nguyễn Đăng Vũ - UVBTV Liên hiệp Hội (Nguồn: Bản tin Khoa học và Đời sống số 04/2022)